:

Bài báo của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao V.Makei (đang trên tạp chí “Nước Nga trong nền chính trị toàn cầu” tháng 11 năm 2022)

17.11.2022 г.

“Trật tự thế giới tự do: Liệu nó có thể được cứu vãn trong thế giới phi bá quyền ngày nay?”

Thông tin tóm tắt

Trật tự thế giới tự do xuất hiện sau Thế chiến II và đạt đến đỉnh cao vào những năm 1990 khi quốc gia chính ủng hộ nó chiếm được vị trí bá chủ trên trường thế giới Điều quan trọng cần lưu ý là nguồn gốc thực sự của trật tự có thể bắt nguồn từ thời sớm hơn rất hơn nhiều, vào cuối thế kỷ 18, khi hai hướng khác biệt xuất hiện trong chính trị châu Âu- kinh tế và chính trị. Ngày nay, các chuyên gia có xu hướng bỏ qua bản chất kép của trật tự, do hai “nhánh” này tạo ra, do đó quên mất vấn đề nội tại then chốt vốn có của nó. Mặc dù thành phần kinh tế của trật tự có thể được tất cả mọi người chấp nhận, nhưng thành phần chính trị của nó, được thể hiện trong cái gọi là ý tưởng “thế giới dân chủ”, chỉ phục vụ mục đích phân cực thế giới. Đáng chú ý là diễn ngôn về trật tự ngày nay diễn ra trong thời kỳ hậu bá quyền. Do đó, những người tiếp tục nhấn mạnh vào khả năng cứu vãn trật tự phù hợp với kỷ nguyên tồn tại ngắn ngủi của bá quyền tự do đã bỏ qua thực tế rằng một thế giới đa dạng đòi hỏi một kiểu trật tự quốc tế mới.

Nhập đề

Trong thập kỷ qua, sự quan tâm đến chủ đề cái gọi là trật tự thế giới tự do đã tăng lên. Mối quan tâm này đang tăng lên đều đặn, đặc biệt là trong cộng đồng học thuật phương Tây, với sự lên xuống thất thường của nó. Động lực chính của xu hướng chung này dường như là sự trỗi dậy không thể tránh khỏi của Trung Quốc và sự suy giảm tương đối ngày càng rõ ràng của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nhiều chuyên gia lập luận rằng, sự thống trị của Trung Quốc đặt ra mối đe dọa hiện hữu lâu dài đối với trật tự thế giới tự do, được xây dựng lên sau Thế chiến II xoay quanh các giá trị và lợi ích của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, cường quốc thống trị ngày nay. Theo lập luận này, khi Trung Quốc trở thành cường quốc thống trị trên trường thế giới, nó sẽ thay thế trật tự tự do bằng một trật tự thế giới, phản ánh tốt hơn hệ thống kinh tế và chính trị trong nước. Vì vậy, dường như chúng ta đang chứng kiến ​​sự xuất hiện của một trật tự quốc tế “chuyên chế”. Theo logic này, toàn bộ giới học thuật phương Tây có vẻ khá bi quan về triển vọng tương lai của trật tự thế giới tự do.

Trong thập kỷ qua, sự quan tâm đến chủ đề cái gọi là trật tự thế giới tự do đã tăng lên. Mối quan tâm này đang tăng lên đều đặn, đặc biệt là trong cộng đồng học thuật phương Tây, với sự lên xuống thất thường của nó. Động lực chính của xu hướng chung này dường như là sự trỗi dậy không thể tránh khỏi của Trung Quốc và sự suy giảm tương đối ngày càng rõ ràng của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nhiều chuyên gia lập luận rằng, sự thống trị của Trung Quốc đặt ra mối đe dọa hiện hữu lâu dài đối với trật tự thế giới tự do, được xây dựng lên sau Thế chiến II xoay quanh các giá trị và lợi ích của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, cường quốc thống trị ngày nay. Theo lập luận này, khi Trung Quốc trở thành cường quốc thống trị trên trường thế giới, nó sẽ thay thế trật tự tự do bằng một trật tự thế giới, phản ánh tốt hơn hệ thống kinh tế và chính trị trong nước. Vì vậy, dường như chúng ta đang chứng kiến ​​sự xuất hiện của một trật tự quốc tế “chuyên chế”. Theo logic này, toàn bộ giới học thuật phương Tây có vẻ khá bi quan về triển vọng tương lai của trật tự thế giới tự do.

Các cuộc tranh luận về trật tự tự do trở nên đặc biệt sôi nổi vào năm 2016-1017 trong bối cảnh Donald Trump được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ, việc Vương quốc Anh rút khỏi Liên minh Châu Âu, làn sóng di cư ồ ạt đến Châu Âu từ Trung Đông và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy cánh hữu và chủ nghĩa dân tộc ở một số nước Tây Âu. Xu hướng này được đề cập khá rõ ràng trên tạp chí Foreign Affairs số tháng 1-tháng 2 năm 2017 có tựa đề “Không theo trật tự: Tương lai của hệ thống quốc tế”, trong đó có một số bài viết rất thú vị của các chuyên gia phương Tây nổi tiếng.

Ngoài ra, vào tháng 4 năm 2017, đã diễn ra một cuộc thảo luận hết sức  thú vị về tương lai của trật tự thế giới tự do với sự tham gia của hai nhà khoa học chính trị nổi tiếng phương Tây — Niall Ferguson từ Anh và Farid Zakaria từ Hoa Kỳ — những người trong gần hai giờ đồng hồ đã đưa ra những lập  luận chi tiết cho trả lời của họ cho câu hỏi “liệu có hay không, trật tự thế giới tự do đã kết thúc? Ferguson trả lời khẳng định , Zakaria lập luận ngược lại. Phần lớn những người có mặt đã bỏ phiếu cho quan điểm bi quan của Ferguson.

Sự quan tâm đến chủ đề trật tự thế giới tự do lại nổi lên trong bối cảnh chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga tại Ukraine được phát động vào ngày 24/2/2022. Một lần nữa, các phương tiện truyền thông phương Tây lại bắt đầu hoạt động mạnh mẽ. Nhìn chung, phương Tây tin rằng, các hành động của Nga ở Ukraine đã giáng một đòn chí mạng vào trật tự thế giới tự do vốn đã phải gánh chịu nhiều hậu quả từ sự trỗi dậy của Trung Quốc với chính sách đối ngoại ngày càng quyết đoán, cũng như trong bối cảnh những thách thức và mối đe dọa xuyên quốc gia ngày càng gia tăng, chẳng hạn như biến đổi khí hậu, chăm sóc sức khỏe và nhiều vấn đề khác. Theo logic suy nghĩ này, sẽ không có hy vọng về sự hồi sinh của trật tự thế giới tự do.

Kể từ khi chủ đề về trật tự thế giới tự do nảy xuất hiện khoảng một thập kỷ trước, các chính trị gia và nhà khoa học chính trị không phải phương Tây cũng đã tham gia vào cuộc thảo luận, mặc dù ở mức độ thấp hơn. Ví dụ, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã nói rõ về điều này trong một cuộc phỏng vấn với Financial Times vào tháng 6 năm 2019, lập luận rằng ý tưởng tự do đã tồn tại lâu hơn mục đích của nó và trật tự thế giới tự do đã trở nên lỗi thời vì nó xung đột với lợi ích của các quốc gia, đại đa số người dân trên thế giới. Tạp chí “Nước Nga trong nền chính trị toàn cầu”, thực sự là một trong những ấn phẩm hàng đầu về chính sách đối ngoại ngoài phương Tây, cũng thường xuyên tham gia thảo luận. Các cuộc tranh luận về chủ đề trật tự thế giới tự do đã diễn ra sôi nổi, cái gọi là “các nền dân chủ” chống lại “các chế độ chuyên quyền” bởi vì trật tự tự do gắn liền với nhóm đầu tiên và bị cho là bị đe dọa bởi nhóm các quốc gia thứ hai. Không có định nghĩa nào được tất mọi người chấp nhận cho các khái niệm này. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều nhận thức rõ ý nghĩa của chúng. Nói chung, “dân chủ” trong một quốc gia có nghĩa là một hình thức chính phủ trong đó quyền lực được phân cấp và phân phối ít nhiều đồng đều giữa các nhánh khác nhau của nó, trong khi “chuyên chế” là một hình thức chính phủ trong đó quyền lực được tập trung và vai trò của người điều hành khá mạnh mẽ. Ví dụ, một “nhà chuyên quyền” nắm quyền sẽ không bao giờ đồng ý với tuyên bố nổi tiếng của Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan rằng “chính phủ không phải là giải pháp cho vấn đề của chúng ta, mà chính phủ chính là vấn đề.” Bất kỳ “nhà chuyên quyền” nào chắc chắn sẽ chứng minh điều ngược lại.

Bài báo này là một nỗ lực để đóng góp một cách khiêm tốn vào cuộc tranh luận về trật tự thế giới tự do từ quan điểm của một quốc gia “chuyên quyền”, vì Belarus, mà tác giả là bộ trưởng ngoại giao, đã có “vinh dự” được đưa vào. trong nhóm này của các nước phương Tây. Tất nhiên, tác giả không có ý là đại diện cho quan điểm của tất cả các quốc gia “chuyên quyền”, mà chỉ là quan điểm của riêng, dựa trên nhiều năm kinh nghiệm với tư cách là một quan chức cấp cao ở một quốc gia “chuyên quyền”. Đồng thời, tác giả không gán nghĩa xấu cho các thuật ngữ “dân chủ” và “chuyên quyền”, mà chỉ sử dụng chúng vì sự thuận tiện theo nghĩa mà chúng được sử dụng rộng rãi trong diễn ngôn chính sách đối ngoại.

Nguồn gốc, Bản chất, Thách thức

Trật tự thế giới là gì và tại sao trật tự hiện tại được coi là tự do? Trật tự thế giới nói chung có thể được coi là mô hình chủ đạo về sự tham gia vào chính trị toàn cầu của các bên tham gia. Như đã từng xảy ra trong chiều dài lịch sử, quốc gia dẫn đầu hoặc bá quyền trên thế giới đóng vai trò then chốt trong việc thiết lập trật tự thế giới. Đó là một quốc gia luôn cố gắng thiết lập các quy tắc ứng xử nhất định trên trường quốc tế, mà những quốc gia khác muốn hoặc không nhưng buộc phải tuân theo. Trật tự thế giới đúng hơn là một cơ chế không chính thức có thể được coi là một cái gì đó đóng vai trò của chính phủ thế giới trong trường hợp không có một chính phủ như vậy.

Trật tự thế giới tự do hiện nay xuất hiện khi nào? Theo sự quan điểm thông thường, trật tự này bắt đầu được thực hiện dần dần sau Thế chiến thứ hai, khi Hoa Kỳ, với sự hỗ trợ của các nước phương Tây khác, đã giúp tạo ra một số thể chế, quy tắc và quy định quốc tế được thiết kế để tránh lặp lại những sai lầm của những năm 1930, và thay vào đó thúc đẩy các ý tưởng về hòa bình, thịnh vượng và dân chủ. Do đó, cuối cùng, trật tự được đưa ra dựa trên các thể chế như Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác, các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Thương mại Thế giới, các liên minh an ninh tập thể như NATO, các nhóm không chính thức như G -7, G-20, một số hiệp định, công ước quốc tế và nhiều hiệp định, văn kiện chính thức và không chính thức khác. Nói chung, những cấu trúc này ảnh hưởng đến hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống trên hành tinh.

Trật tự có được đặc tính tự do, nhờ trong thực tế những người ủng hộ nó đã kết hợp vào các cấu trúc toàn cầu mới được tạo ra những yếu tố tự do cụ thể mà họ thực hành trong chính trị trong nước của họ. Do đó, trật tự thế giới tự do bắt đầu dựa vào các yếu tố chính sau: tự do thương mại, tự do di chuyển vốn, một hình thức điều hành dân chủ dựa trên sự tách biệt và cân bằng của các nhánh quyền lực khác nhau, cam kết về quyền con người, đặc biệt là quyền cá nhân. quyền dân sự, chính trị và quyền tài sản. Có vẻ như những người ủng hộ những ý tưởng này bắt đầu tự gọi mình là “các nhà dân chủ” để thuyết phục người dân của họ rằng người dân của họ có cơ hội thực sự để bầu ra chính quyền và điều hành nhà nước thông qua các đại diện được bầu.

Trật tự quốc tế tự do xuất hiện trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh. Do đó, việc Liên Xô và các đồng minh thách thức trật tự là điều tự nhiên. Thật vậy, khối Xô Viết, với các phương án tổ chức kinh tế và chính trị nội bộ khác là cho một loại thay thế tạm thời cho trật tự phương Tây. Tuy nhiên, sự tan rã của khối vào đầu những năm 1990 và việc các thành viên cũ của nó chấp nhận các giá trị “tự do” đã khiến một nhà phân tích chính sách đối ngoại nổi tiếng tuyên bố “sự kết thúc của lịch sử” bởi vì, theo logic của ông, với chiến thắng của chủ nghĩa tự do trước chủ nghĩa cộng sản, không còn bất kỳ lựa chọn thay thế nào khác cho trật tự tự do, và do đó, lịch sử như chúng ta vẫn luôn biết, tức là lịch sử của các cuộc chiến tranh, kình địch và đối đầu, cuối cùng đã kết thúc.

Một thách thức ý thức hệ khác đối với trật tự thế giới tự do, mặc dù trong thời gian khá ngắn, đến từ các nước đang phát triển ở đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, cụ thể là vào đầu những năm 1970. Quá trình phi thực dân hóa trong những năm 1960 đã đưa một số lượng lớn các quốc gia đang phát triển gặp bất lợi trong trật tự quốc tế tự do, đặc biệt là về thương mại tự do với các quốc gia phát triển phương Tây.

Vì lý do này, thế giới các quốc gia đang phát triển đã đưa ra một thách thức tập thể đối với trật tự hiện tại. Sáng kiến ​​của các nước đang phát triển, được gọi là “Trật tự kinh tế quốc tế mới”, được chính thức hóa trong văn kiện cuối cùng của hội nghị thượng đỉnh Phong trào Không liên kết năm 1973, và sau đó được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua dưới hình thức nghị quyết cùng tên vào năm 1974. Chương trình bao gồm một số biện pháp nhằm sửa đổi các mối quan hệ kinh tế quốc tế hiện có nhằm mang lại lợi ích lớn hơn cho các nước thế giới thứ ba. Tuy nhiên, việc thực hiện sáng kiến ​​này phụ thuộc vào thiện chí của phương Tây, vốn đã từ chối nó.

Như vậy, vào những năm 1990, trật tự thế giới tự do dường như đã vượt qua mọi thách thức tạm thời và trở nên mạnh mẽ và bền vững. Vì vậy, điều gì đã xảy ra khi chỉ trong vài thập kỷ, đó thực sự là một khoảnh khắc thoáng qua dưới góc độ lịch sử, diễn ngôn toàn cầu về trật tự thế giới tự do đã chuyển từ sự lạc quan tươi sáng sang chủ nghĩa bi quan chua chát? Có lẽ nên xem xét kỹ hơn hiện tượng trật tự thế giới tự do bằng cách, nhằm tìm hiểu xem liệu nó có chứa một số sai sót cố hữu nào đó, điều định trước sự suy yếu không thể tránh khỏi.

Dấu ấn đặc biệt và nguyên tắc cơ bản

Khi các nhà chính trị học nói rằng, trật tự thế giới tự do xuất hiện sau năm 1945, họ vừa đúng vừa sai. Họ xác định chính xác ngày này là ngày bắt đầu công việc thực tế nhằm tạo ra các thể chế có liên quan đến trật tự. Tuy nhiên, họ đã sai lầm khi không nhìn vào quá khứ để tìm kiếm những sự kiện đã định trước sự xuất hiện của trật tự vào giữa thế kỷ XX.

Trong cuốn sách “Trật tự thế giới” (2014), cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger lập luận rằng, một “trật tự thế giới” toàn cầu thực sự chưa bao giờ tồn tại, và cái được coi là trật tự hiện nay đã được phát minh ra ở Tây Âu gần bốn thế kỷ trước. Do đó, theo Kissinger, Hòa ước Westphalia năm 1648, dựa trên hệ thống các quốc gia độc lập hạn chế can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và kiềm chế tham vọng chính sách đối ngoại của nhau thông qua cân bằng quyền lực, đã trở thành dấu ấn đặc biệt của hệ thống mới trong quan hệ quốc tế.

Có một cách nhìn sâu sắc quan trọng khác về nguồn gốc của trật tự thế giới tự do đã được đưa ra bởi nhà phê bình lịch sử người Anh Eric Hobsbawm trong cuốn sách “Thời đại cách mạng” (1962) của ông, cuốn sách đầu tiên trong bộ ba cuốn sách về “thế kỷ 19 dài đằng đẵng” của ông. E. Hobsbawm đã đề xuất một khái niệm gọi là “Cách mạng kép”, theo đó ông muốn nói đến cuộc Cách mạng Công nghiệp Anh diễn ra vào cuối thế kỷ 18 và cuộc Cách mạng Pháp năm 1789.

Theo quan điểm của nhà sử học người Anh, cuộc Cách mạng công nghiệp bắt đầu vào khoảng năm 1780 và kéo dài 20 năm, trong khi từ năm 1780, tốc độ thay đổi mang tính cách mạng trong phát triển kinh tế đã trở thành chuẩn mực. Đến lượt mình, Cách mạng Pháp, lấy cảm hứng từ những lý tưởng của triết học Khai sáng, đã dẫn đến sự truyền bá các ý tưởng như dân chủ, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa tự do. Chủ nghĩa tự do thực sự đã trở thành phong trào thống trị trong thời kỳ hậu Cách mạng Pháp. Những người theo chủ nghĩa tự do tin vào tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền công dân, bầu cử công bằng, tự do tôn giáo và tài sản tư nhân. Do đó, Hobsbawm định nghĩa Cách mạng Công nghiệp là một cuộc cách mạng kinh tế, trong khi ông gọi Cách mạng Pháp là một cuộc cách mạng chính trị. Cùng nhau, chúng tạo thành “Cuộc cách mạng kép”.

Không khó để nhận thấy rằng, các yếu tố chính xác định trật tự thế giới tự do ngày nay — chủ nghĩa tự do, thương mại tự do và dân chủ — đã được tạo ra chính xác bởi cuộc “Cách mạng kép” vào đầu thế kỷ XVIII và XIX. Do đó, nếu Hòa ước Westphalia năm 1648 là dấu ấn đặc biệt của trật tự thế giới tự do, thì “Cách mạng kép” chắc chắn có thể được coi là nguyên tắc chỉ đạo và tiền thân của nó.

“Cuộc cách mạng kép” cuối cùng đã phát triển thành một trật tự thế giới tự do. Nhưng con đường từ hiện tượng thứ nhất đến hiện tượng thứ hai không suôn sẻ và dễ dàng. Trong khi phần kinh tế của “Cuộc cách mạng kép” được chào đón bởi giới tinh hoa lúc bấy giờ của các quốc gia hàng đầu, thì phần chính trị của nó đã bị tấn công bởi chủ nghĩa bảo thủ liên kết với Liên minh Thần thánh, được thành lập vào năm 1815 bởi Áo, Phổ và Nga để chống lại các ý tưởng của chủ nghĩa tự do. chủ nghĩa dân tộc và dân chủ ở lục địa châu Âu.

Cơ hội thành công cho phần chính trị của “Cuộc cách mạng kép” đã xuất hiện sau Thế chiến thứ nhất, khi Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson cố gắng thực hiện lời hứa “Làm cho thế giới an toàn vì nền dân chủ” để biện minh cho việc Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến. Tuy nhiên, nỗ lực này đã thất bại, đặc biệt là vì Tổng thống Wilson đã không nhận được sự ủng hộ cho chương trình nghị sự “dân chủ” toàn cầu thời hậu chiến của ông ở chính đất nước của mình.

Đối với phần kinh tế của “Cuộc cách mạng kép”, tài liệu thống kê của nó trong phần lớn thời gian cho đến vài thập kỷ trước đây khá không nhất quán. Một mặt, Cách mạng Công nghiệp chắc chắn đã góp phần vào sự tiến bộ của loài người, bởi nhờ tự do thương mại và tốc độ phát triển kinh tế trong nước ngày càng nhanh, nó đã giúp loài người thoát ra khỏi cái gọi là “cái bẫy Malthusian”. Mặt khác, nó dẫn đến hai hệ quả tiêu cực.

Ở cấp độ quốc tế, nó đã góp phần tạo ra một cơ chế thương mại tự do mà từ đó các nước công nghiệp được hưởng lợi, trong khi các xã hội khác thậm chí còn rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng hơn. Ở cấp độ trong nước, Cách mạng Công nghiệp đã tạo ra sự bất mãn to lớn trong xã hội, khi người giàu tìm cách tối đa hóa việc rút vốn từ người nghèo để đầu tư vào phát triển hơn nữa và tăng trưởng kinh tế. Có thể lập luận rằng, hệ tư tưởng cộng sản xuất hiện ở châu Âu chính xác là để chống lại xu hướng này.

Như vậy, “Cuộc cách mạng kép” đã tạo ra hai hướng riêng biệt — kinh tế và chính trị — mà một thế kỷ rưỡi sau đã được phản ánh trong trật tự thế giới tự do. Câu hỏi đặt ra là tại sao cộng đồng học thuật nghiên cứu chủ đề về trật tự thế giới tự do lại quên mất bản chất kép rõ ràng này của nó? Vì vấn đề với trật tự thế giới tự do, như sẽ được trình bày trong các phần sau, nằm chính ở bản chất kép của nó.

Sự tiến hóa

Như đã trình bày ở trên, trật tự thế giới tự do đã vượt qua hai thách thức ý thức hệ do phe xã hội chủ nghĩa và thế giới thứ ba đặt ra trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, trật tự thế giới tự do đã không còn nguyên vẹn. Thay vào đó, nó trải qua quá trình tiến hóa của chính mình. Một sự kiện quan trọng đã xảy ra trong nhánh kinh tế và một sự kiện lớn đã xảy ra trên con đường chính trị. Cả hai sự kiện đã tác động, biến đổi trật tự thế giới tự do, khiến nó trở nên “nhân đạo” hơn và “hung hăng hơn”.

Một xu hướng then chốt bắt đầu từ những năm 1970 trên mặt trận kinh tế mang tính tích cực và làm cho trật tự trở nên “nhân đạo” hơn. Chúng ta đang nói về hiện tượng “thuê ngoài” (“outsourcing”), ý ở đây là việc chuyển giao sản xuất từ ​​phương Tây sang thế giới đang phát triển. Logic ở đây rất rõ ràng: bằng cách chuyển sản xuất ra nước ngoài, các tập đoàn xuyên quốc gia giảm chi phí sản xuất do lao động rẻ hơn ở các nước đang phát triển và tăng lợi nhuận của họ, trong khi các nước đang phát triển chấp nhận “thuê ngoài” thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài để có thể tăng tiềm năng xuất khẩu của nền kinh tế, cho phép họ thực hiện một bước nhảy vọt trong sự phát triển của mình.

Về khía cạnh này, Trung Quốc đại diện cho câu chuyện thành công lớn nhất của quá trình này. Thật vậy, nhờ mở cửa kinh tế và thương mại tự do, Trung Quốc đã có thể thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài  thông qua sự tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, đạt được sự phát triển kinh tế chưa từng có, đưa hàng trăm triệu người thoát khỏi đói nghèo và đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Các chuyên gia thống nhất trong ý kiến rằng, trong một tương lai không xa, Trung Quốc sẽ giành lại vị thế nền kinh tế lớn nhất hành tinh mà nước này đã nắm giữ hàng thế kỷ trước khi cuộc Cách mạng Công nghiệp diễn ra. Nhiều nước đang phát triển khác, đặc.

Tuy nhiên, xu hướng tích cực này không có nghĩa là trật tự quốc tế tự do đã trở nên hoàn toàn «nhân đạo» dưới góc độ kinh tế. Điều này không như vậy, bởi vì vẫn còn một «tầng lớp không tích hợp» đáng kể trên thế giới — một thuật ngữ được đặt ra bởi một số nhà khoa học chính trị để mô tả các quốc gia kém phát triển nhất, «bị ngắt kết nối» với toàn cầu hóa. Nhóm các nước này, vì nhiều lý do, vẫn phụ thuộc rất nhiều vào hỗ trợ chính thức nhằm mục đích phát triển và các hình thức hỗ trợ quốc tế khác.

Như vậy, các nước «chuyên quyền» cảm thấy như thế nào trong môi trường toàn cầu đối với nền kinh tế đang thay đổi này? Có thể lập luận một cách hợp lý rằng các nước «chuyên quyền» nói chung được hưởng lợi từ thành phần kinh tế của trật tự quốc tế tự do. Điều này được khẳng định ít nhất bởi thực tế là tất cả họ đều tìm cách dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt kinh tế của các nước phương Tây, nếu như các biện pháp đó áp đặt để chống lại «chế độ chuyên quyền» và sẽ hạn chế cơ hội hưởng lợi từ thương mại tự do hóa lưu chuyển dòng vốn.

Hơn nữa, tất cả các nước «chuyên quyền» đều được hưởng lợi từ việc tiếp cận thị trường tiêu dùng ở các quốc gia «dân chủ» và từ việc chuyển giao công nghệ từ các «dân chủ», mà phần lớn được thực hiện bởi các Công ty đa quốc gia phương Tây trong quá trình gia công. Điều quan trọng nữa là tất cả các nước «chế độ chuyên quyền» đều tìm cách gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) để tận dụng tối đa lợi thế của thương mại tự do. Vì vậy, nói chung, «chuyên quyền» đã hòa nhập khá tốt vào quá trình và cấu trúc kinh tế của trật tự tự do và thậm chí có xu hướng liên kết nhiều hơn.

Những sự thật này cho phép chúng ta kết luận rằng các nước «chế độ chuyên quyền» không có vấn đề nghiêm trọng nào với trật tự quốc tế tự do trong thành phần kinh tế, cụ thể với tự do thương mại và tự do lưu chuyển dòng vốn. Do đó, các nước «chuyên quyền»  hiện nay dường như không quan tâm đến việc thay đổi nguyên trạng «kinh tế» này bằng cách tạo ra một trật tự kinh tế mới, ít nhất thì sự thống nhất về sáng kiến ​​này hiện tại dường như khó xảy ra. Nhưng «chuyên quyền» có một «điều kiện» trong lĩnh vực kinh tế. Tình trạng hiện tại của nền kinh tế dường như có thể chấp nhận được đối với «chế độ chuyên quyền» ở cấp độ quốc tế, với điều kiện là rằng các nước «chuyên quyền» được tự do thực hiện các chính sách kinh tế riêng dưới sự kiểm soát chặt chẽ hơn của nhà nước. Hiện tượng này được gọi là «chủ nghĩa tư bản nhà nước» và được thực hiện thành công ở nhiều quốc gia «chuyên quyền». Như vậy, các quốc gia «chuyên quyền» có lý do chính đáng để đưa ra quan điểm như vậy, vì nhứng quốc gia đó nhớ rất rõ rằng, việc thiếu kiểm soát và phụ thuộc vào «Đồng thuận Washington» của phương Tây đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính nghiêm trọng nhất ở Đông Nam Á năm 1997-1998 và ở Liên bang Nga năm 1998.

Trên thực tế, các quốc gia «chuyên quyền» đang gặp vấn đề với trật tự quốc tế tự do, đặc biệt là với thành phần chính trị. Vấn đề là phương Tây tìm cách áp đặt lên thế giới còn lại một chế độ chính trị, đó là «dân chủ». Tại sao chuyện này xảy ra? Xu hướng này được giải thích một cách thuyết phục nhất bởi trường phái tự do về các lý luận quan hệ quốc tế thông qua lý thuyết «hòa bình dân chủ».

Trường phái này đặt câu hỏi — điều gì quyết định quan hệ quốc tế — ý định của các quốc gia hoặc khả năng của họ? – và rõ ràng thích yếu tố đầu tiên hơn. Nói cách khác, nếu một số quốc gia mong muốn thiết lập các mối quan hệ tốt đẹp đối với các quốc gia khác, thì họ không cần phải xây dựng tiềm lực quân sự và tiến hành chiến tranh. Nhưng làm thế nào để có tình trạng khi mà tất cả các quốc gia có thiện ý đối với nhau? Có lẽ một mục tiêu như vậy có thể đạt được nếu mọi người trở nên giống nhau. Logic này đã dẫn đến lý thuyết «hòa bình dân chủ» — quan điểm cho rằng các nước «dân chủ» không gây chiến với nhau vì các chính phủ «dân chủ» không giống như các hình thức chính phủ hiện hành khác, và chịu trách nhiệm trước người dân của họ và do đó, không thể nuôi dưỡng ý định thù địch chống lại các quốc gia «dân chủ» khác.

Khái niệm này bắt nguồn từ ý tưởng của nhà triết học người Đức vào thế kỷ XVIII Immanuel Kant trong tác phẩm Perpetual Peace: A Philosophical Sketch đã khẳng định rằng, các quốc gia có thể chế cộng hòa sẽ tạo ra hòa bình đối với nhau so với các quốc gia có thể chế cộng hòa đối với các quốc gia khác. Do đó, công thức để khắc phục những hạn chế của tình trạng vô chính phủ quốc tế, theo logic này, là làm cho tất cả các quốc gia có  hệ thống giống nhau về bản chất cấu trúc bên trong, nghĩa là theo chính thể Cộng hòa. Việc thực hiện mục tiêu này sẽ làm cho việc tăng cường tiềm lực quốc phòng trong nước và cân bằng trên trường quốc tế không còn phù hợp và không cần thiết trên thế giới có các quốc gia có cùng chí hướng. Do đó, kết quả là, hòa bình vĩnh cửu sẽ được lập trên hành tinh.

Vào thời điểm nhà triết học Kant viết tác phẩm, hình thức chính thể cộng hòa được các nhà tư tưởng hàng đầu thời đó gắn liền với sự tiến bộ xã hội, trái ngược với các chế độ quân chủ «phản động» và «bảo thủ» đang thống trị thế giới và bị cho là kìm hãm sự tiến bộ của nhân loại. Hiện tại, hình thức chính thể cộng hòa đã thống trị trên thế giới và được chấp nhận là «tự do», và các quốc gia «chuyên quyền», những người theo chủ nghĩa tự do đã thay thế từ «cộng hòa» bằng «dân chủ» trong lý thuyết của Kant và do đó, dẫn đến việc sửa đổi hướng dẫn hành động chính trị cho các chính trị gia phương Tây.

Một điểm rất quan trọng trong lý thuyết «hòa bình dân chủ» có một yếu tố là «các nền dân chủ không chống lại các «dân chủ khác», nhưng họ được quyền tự do chiến đấu chống lại «những kẻ độc tài», «bạo chúa» và «chuyên quyền». Đây là cách mà thuyết này giải nghĩa, ví dụ, về cuộc chiến tranh đầu tiên kể từ khi bắt đầu (trong phiên bản của Kant), mà quốc gia «cộng hòa»,  («dân chủ») đã tiến hành chống lại các thế lực «xấu xa» vào thời đó, cụ thể là cuộc chiến của cách mạng Pháp chống lại các chế độ quân chủ Châu Âu vào cuối thế kỷ 18.

Kể từ đó, việc thúc đẩy ý tưởng về «hòa bình dân chủ» đã bị cản trở bởi các lực lượng toàn cầu khác, chẳng hạn như chủ nghĩa bảo thủ Châu Âu trong thế kỷ 19 và Liên Xô trong thế kỷ 20. Lý thuyết này không có cơ hội trở thành chủ đạo trên toàn thế giới cho đến những năm 1990, bởi vì không có đất nước «cộng hòa" hay «dân chủ» bá quyền nào trên thế giới đứng vững sau lý thuyết đó.

Thuật ngữ «bá quyền» được sử dụng ở đây bởi theo quan điểm của nhà tư tưởng chính trị người Ý Antonio Gramsci trong những năm 1920 và 1930. Quyền bá chủ theo nghĩa «Gramsci» này không có nghĩa là sự thống trị về quân sự hoặc kinh tế của một quốc gia đối với các quốc gia khác mà đúng hơn là phản ánh thực tế là tất cả trong hệ thống sẵn sàng chấp nhận địa vị lãnh tụ, quyền lực và cấu trúc quyền lực của ai đó gắn liền với họ và coi đó là tự nhiên và hợp pháp.

Vào đầu những năm 1990, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã trở thành cường quốc bá chủ. Mỹ có thể sử dụng vị thế và sức mạnh của mình một cách hợp lý hơn với mục đích định hình và củng cố trật tự quốc tế tự do theo cách có lợi cho tất cả các bên tham gia hệ thống quan hệ quốc tế, từ đó đảm bảo sức mạnh và sự ổn định của trật tự. Tuy nhiên, bá chủ đã chọn con đường chính trị quyền lực ích kỷ, tin rằng đã đến lúc lợi dụng điểm yếu tạm thời của nước khác để củng cố vị thế của mình trên toàn cầu. Do đó, «hòa bình dân» chủ đã trở thành một công cụ quan trọng trong kho tàng của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ.

Thực tế, việc mở rộng NATO do Hoa Kỳ khởi xướng là gì nếu không phải là bằng chứng về tính khả thi của lý thuyết «hòa bình dân chủ»? Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và Hiệp ước Warsaw sụp đổ thì sự tồn tại sau này của NATO đã mất hết ý nghĩa. Tuy nhiên, mặc dù không có bất kỳ mối đe dọa nào, liên minh bắt đầu được mở rộng dưới nhiều lý do khác nhau, bao gồm cả những «nền dân chủ» mới và với sự cưỡng bức, vi phạm luật pháp quốc tế, áp đặt hình thức chính thể này lên các quốc gia khác trên thế giới.

Cái mà gọi là «các cuộc cách mạng màu» là gì mà được phương Tây truyền cảm hứng và ủng hộ với mục đích thiết lập «dân chủ» ở các quốc gia khác, chủ yếu ở các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, nếu không muốn nói là nỗ lực thực hiện lý thuyết «hòa bình dân chủ»? Hơn nữa, việc các nước «dân chủ» trên thế giới liên tục sử dụng các biện pháp cưỡng chế đơn phương bất hợp pháp đối với các nước «chuyên quyền» nhằm hạn chế lợi ích của họ từ thành phần kinh tế của Trật tự quốc tế tự do cũng là một phần nỗ lực của phương Tây nhằm thúc đẩy ý tưởng  «hòa bình dân chủ».

Đương nhiên, các nước «chế độ chuyên quyền» chống lại các nỗ lực áp đặt «hòa bình dân chủ» vì lý do đơn giản là hình thức chính thể nội bộ của một quốc gia không thể bị áp đặt từ bên ngoài. Hình thức bên trong của mỗi quốc gia là một «cấu trúc lịch sử» phức tạp, sự phát triển của nó bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố, chẳng hạn như địa lý, tôn giáo, văn hóa, lịch sử quan hệ với các nước láng giềng. Những yếu tố này trong lịch sử đã xác định bản chất của tập trung hóa hoặc phi tập trung hóa ở mỗi quốc gia và mức độ tương tác giữa hành pháp và các nhánh trong cơ cấu quyền lực nhà nước.

Các nước «chế độ chuyên quyền» nhận thức được quá trình lịch sử phức tạp này và không tìm cách áp đặt lối sống tập quyền và «chuyên quyền» của họ lên xã hội phương Tây, bằng sự phát triển nội tại tiến hóa, đã đi đến một hình thức chính thể phi tập trung và hệ thống kiểm tra và cân bằng quyền lực.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi việc áp đặt các hình thức chính thể xa lạ đối với một quốc gia nhất định dẫn đến sự hỗn loạn nội bộ và thực tế là «xé» quốc gia này thành từng mảnh, gây ra «hiệu ứng lan tỏa» bất lợi của vấn đề trong toàn khu vực. Những sự kiện kiểu này diễn ra trong cái gọi là «Mùa xuân Ả Rập» ở Trung Đông và Bắc Phi.

Do đó, thành phần «chính trị» của trật tự làm suy yếu và làm mất uy tín của chính trật tự, từ đó làm nảy sinh ý tưởng về việc tạo ra một trật tự thế giới mới.

Trật tự mới?

Không thể không chia sự bi quan chung về trật tự quốc tế tự do và triển vọng tương lai của nó. Tuy nhiên, lý do cho sự bi quan này vẫn chưa được xác định chính xác trong diễn ngôn toàn cầu đang diễn ra.

Vấn đề với trật tự quốc tế tự do không phải là một số sự kiện nhất định, chẳng hạn như Brexit, cuộc bầu cử của Trump hoặc hoạt động quân sự đặc biệt của Nga ở Ukraine, làm «suy yếu» trật tự. Tất cả những sự kiện này đều là những sự kiện thoáng qua, chúng đến rồi đi. Vấn đề với trật tự quốc tế tự do là cấu trúc. Lịch sử cho thấy trật tự thế giới (hay đúng hơn là trật tự khu vực, nếu nhìn từ góc độ lịch sử) phát triển mạnh mẽ khi được hỗ trợ bởi các quốc gia bá quyền. Thế giới hiện đại đang ở trong giai đoạn bá quyền gần như từ «sự sụp đổ của Bức tường Berlin năm 1989 cho đến sự sụp đổ của Lehman Brothers năm 2007», như nhà kinh tế học người Mỹ Joseph Stiglitz đã nói.

Thật sự đó là kỷ nguyên của chủ nghĩa chiến thắng của Hoa Kỳ, một thời điểm «đơn cực». Về mặt chính trị, «thời điểm» này đã kết thúc với sự căng thẳng quá mức của «đế quốc» của Hoa Kỳ ở Iraq, Afghanistan và các nơi khác, trong khi về mặt kinh tế, nó kết thúc với cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu do «chủ nghĩa nguyên lý thị trường» thống trị ở Hoa Kỳ gây ra.

Ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại hậu bá quyền. Do đó, chúng ta phải đối mặt với câu hỏi trật tự nào là phù hợp nhất cho một giai đoạn phát triển nhất định của con người. Lịch sử cho thấy rằng các thời kỳ bá quyền bị thống trị bởi các trật tự khu vực và hiếm hơn là các trật tự ý thức hệ. Chủ nghĩa khu vực (hay hệ tư tưởng) có phù hợp với thế giới hiện đại không? Đó chắc chắn là một lựa chọn khá khả thi.

Thực tế, việc đạt được sự hợp tác hiệu quả ở cấp độ khu vực dễ dàng hơn nhiều so với cấp độ toàn cầu, bởi vì các khu vực là những đơn vị chính trị, kinh tế và văn hóa gắn kết hơn so với cấu trúc toàn cầu. Mỗi khu vực có bá quyền rõ ràng theo nghĩa «Gramsci», có khả năng tác động đến việc hình thành trật tự khu vực. Hơn nữa, các dòng chính trị ở tất cả các khu vực dường như ủng hộ một sự tiến triển như vậy. Ví dụ, Tổng thống Nga Vladimir Putin vài năm trước đã đưa ra ý tưởng xây dựng «Greater Eurasian Partnership» nhằm tăng cường và đảm bảo sự hợp tác và liên kết kinh tế hơn nữa ở khu vực này trên thế giới.

Do đó, hoàn toàn có thể tạo ra một trật tự thế giới sẽ được thực hiện thông qua các trật tự khu vực được liên kết với nhau thông qua hợp tác hiệu quả.

Tuy nhiên, cuộc tranh luận ở phương Tây chủ yếu ủng hộ việc duy trì trật tự quốc tế tự do hiện tại. Có một bài báo gần đây với tiêu đề «Hy vọng tốt nhất cuối cùng: Cơ hội cuối cùng của phương Tây để xây dựng một trật tự thế giới tốt đẹp hơn» vừa được đăng trên tạp chí Foreign Affairs chia sẻ quan điểm rất hữu ích về vấn đề này.

Dựa trên bài phát biểu vào tháng 3 năm 2022 của Tổng thống Hoa Kỳ Biden, trong đó ông nói rằng: «Phương Tây hiện đang phải đối mặt với cuộc chiến giữa dân chủ và chuyên quyền, giữa tự do và đàn áp, giữa trật tự dựa trên luật lệ và trật tự được cai trị bởi vũ lực», các tác giả đã đề xuất ý tưởng thành lập một nhóm G-12 để các quốc gia phương Tây vững mạnh. Họ lập luận rằng nhóm mới không nên là một Ad-hoc-Gruppe như G-7, mà nên là một cơ chế hiệu quả để «ngăn chặn chủ nghĩa phục thù của Nga và cạnh tranh với Trung Quốc». Họ coi ý tưởng của mình là hy vọng cuối cùng để cứu vãn trật tự quốc tế tự do.

Những gì mà các tác giả này đề xuất không phải là những gì họ thực sự muốn nói. Trên thực tế, họ đề xuất củng cố khu vực Euro-Atlantic hay có thể gọi cách khác là trật tự «dân chủ» về ý thức hệ. Công thức mà họ đưa ra—thêm «dân chủ» cho thế giới—chắc chắn không thể cứu trật tự tự do như một hiện tượng quốc tế. Ngược lại, nếu được thực hiện, ý tưởng này sẽ thực sự đóng chiếc đinh cuối cùng vào quan tài của trật tự quốc tế tự do.

Do đó, khoảng cách hiện tại giữa phe «dân chủ» và «chuyên quyền» sẽ chỉ ngày càng mở rộng. Các trật tự khu vực hoặc hệ tư tưởng xuất hiện trong một kịch bản như vậy sẽ liên quan nhiều hơn đến sự cạnh tranh hơn là hợp tác với nhau.

Trật tự quốc tế tự do với tư cách là một hiện tượng toàn diện không thể được cứu vãn vì lý do đơn giản là nó không phản ánh thực tế về sự đa dạng của thế giới. «Chủ nghĩa tự do» và «dân chủ» thực sự là những nguyên tắc quản trị đã có từ lâu ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên, ngày nay chúng không phải là các hình thức chính thể được công nhận rộng rãi ở khắp mọi nơi, mà chỉ một số trong số chúng.

Tuy nhiên, có thể giữ các thành phần hữu ích của trật tự tự do và đưa vào trật tự mới. Như đã trình bày trước đó trong bài viết này, thành phần kinh tế của trật tự quốc tế tự do, mặc dù không hoàn hảo, nhưng nhìn chung đã mang lại lợi ích cho đại đa số các quốc gia trên thế giới. Các yếu tố chính về thương mại tự do và tự do hóa lưu chuyển dòng vốn nói chung vẫn mang lại lợi ích cho hầu hết các quốc gia trên thế giới áp dụng trật tự quốc tế tự do.

Nhưng liệu có thể xây dựng một trật tự thế giới toàn cầu thực sự mới? Về mặt giả thuyết, điều đó là có thể, nhưng trên thực tế, kết quả không thể được xác định trước, bởi vì một trật tự như vậy sẽ phải được xây dựng trong trường hợp không có một bá chủ toàn cầu nào có thể «chèo lái» quá trình đó. Vì vậy, những nỗ lực này sẽ đòi hỏi sự phối hợp và làm việc lâu dài từ tất cả các bên.

Điểm khởi đầu để suy nghĩ về khả năng này có thể là những lời được diễn đạt bởi Henry Kissinger trong quyển sách «Trật tự thế giới» (2014): «trật tự thế giới nên được vun trồng chứ không phải áp đặt. Điều này đặc biệt đúng trong thời đại của truyền thông tức thời và dòng chảy chính trị. Bất kỳ hệ thống trật tự thế giới nào, để bền vững, cần phải được thừa nhận là công bằng — không chỉ bởi các nhà lãnh đạo, mà còn bởi các công dân».

Một trật tự thế giới mới cần được vun đắp. Liệu tất cả các quốc gia trên thế giới và người dân có sẵn sàng bắt đầu xây dựng một trật tự mới bằng cách áp dụng phương pháp «phát triển» ngay hôm nay không? Thật đáng nghi ngờ. Để điều này xảy ra, trong tâm trí của dòng chính trị phương Tây phải diễn ra cách mạng.

Trước hết, những người nhiệt thành «dân chủ» ở phương Tây nên tự hỏi câu hỏi như sau: nếu như người nắm bá quyền lãnh đạo không thể hoàn toàn đạt được những gì mong muốn ngay cả trong gần 20 năm thống trị thế giới, thì có thể hy vọng điều gì và đạt được gì bây giờ, khi «tình hình» toàn cầu đã xấu đi rất nhiều đối với hậu bá quyền lãnh đạo?

Nếu họ thành thật trả lời rằng họ không thể và thậm chí không nên hy vọng thành công, thì bước hợp lý tiếp theo là từ bỏ các thực hành gắn liền với lý thuyết «hòa bình dân chủ». Chưa từng có quốc gia nào có đủ sức mạnh, khả năng lãnh đạo, khả năng phục hồi, niềm tin và sự năng động để kiên quyết áp đặt ý chí của mình lên toàn thế giới. Sẽ không ai có thể làm được điều này, đặc biệt là trong thời kỳ hậu bá quyền toàn cầu. Thế giới rất đa dạng, vì vậy trật tự quốc tế phải phản ánh sự đa dạng này nếu nó được tất cả mọi người chấp nhận.

Với suy nghĩ này, tác giả muốn đề xuất một bước thực tế. Đặc biệt, tác giả đề xuất xây dựng tại Liên hợp quốc một Hiến chương về sự đa dạng của thế giới trong thế kỷ 21, theo đó tất cả các quốc gia thành viên có thể đồng ý thiết lập một số nguyên tắc chính để quản lý đời sống quốc tế trong kỷ nguyên của một thế giới hậu bá quyền và rất đa dạng. Việc áp dụng ý tưởng này sẽ chứng minh rằng, tất cả chúng ta đều muốn xây dựng một trật tự quốc tế mới dựa trên thực tế hiện có chứ không phải dựa trên những giấc mơ.

Thật hợp lý khi kết thúc bài viết này bằng những lời của Immanuel Kant, người rất được yêu mến ở phương Tây vì sự hiểu biết sâu sắc về trí tuệ, người mà đã khai sinh ra lý thuyết «hòa bình dân chủ» như một con đường dẫn đến hòa bình vĩnh cửu, với hy vọng rằng những người ngưỡng mộ ông ở phương Tây cũng sẽ thấy được nguồn cảm hứng trong những lời nói có tính chất giáo huấn: «Hòa bình vĩnh cửu cuối cùng sẽ đến thế gian theo một trong hai cách: thông qua cái nhìn sâu sắc của con người, hoặc thông qua các cuộc xung đột và thảm họa ở mức độ nghiêm trọng khiến nhân loại không còn lựa chọn nào khác».

Không quá muộn để chứng minh sự sáng suốt của con người.

Bản để in ấn

Belarusian Diplomatic Missions

All Missions Belarus' Foreign Ministry
Go to